Bài 1: Hạnh phúc xa vời khi đến trường
Áp lực học hành, thi cử, áp lực từ sự kỳ vọng của cha mẹ, áp lực từ cuộc sống xung quanh khiến nhiều học sinh không cảm thấy hạnh phúc khi đến trường. Những “chiếc máy học” sẽ đón nhận tương lai phía trước thế nào nếu bản thân các em không thấy hạnh phúc và không có cái nhìn lạc quan vào cuộc sống?
Không hài lòng với các điều kiện học tập tại trường
Mới đây, nhóm nghiên cứu gồm các tác giả Nguyễn Văn Lượt - Phạm Văn Sơn - Nguyễn Thị Nhật Phương - Đào Phan Thảo Linh, Khoa Tâm lý học, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội đã có nghiên cứu: “Cảm nhận hạnh phúc ở trường học của học sinh trung học phổ thông”. Nhóm nghiên cứu đã khảo sát 253 học sinh trung học phổ thông (THPT) tại Hà Nội và Đà Nẵng, trong đó có 144 học sinh nữ (chiếm 56,9%), 109 học sinh nam (chiếm 43,1%) về cảm nhận hạnh phúc ở trường học.
Cảm nhận hạnh phúc ở trường học của học sinh được nghiên cứu qua 4 khía cạnh: điều kiện trường học, các mối quan hệ ở trường học, sự tự hoàn thiện bản thân và vấn đề sức khỏe ở trường học. Nhìn chung, học sinh trong mẫu nghiên cứu này không cảm thấy hài lòng với các điều kiện học tập ở trường. Trong đó, các khía cạnh học sinh ít hài lòng nhất là tiếng ồn, môi trường học tập căng thẳng.
Ảnh minh họa
Lý giải cho điều này, một học sinh nữ lớp 11 cho rằng “Nhiều khi em cảm thấy giống như là mình không thuộc về nơi này, có nhiều áp lực từ nhiều phía, áp lực phải thành công mọi việc, suôn sẻ ở mọi việc, mà mình không đạt được điều đó, mình cảm thấy mình không cố gắng đủ” hay là ý kiến của một học sinh nữ, lớp 12 cho biết: “Học trong trường chuyên nên áp lực thi cử là rất lớn, nhiều khi em cảm thấy rất mệt mỏi và có mong muốn đừng đặt áp lực lớp chọn trường chuyên cho học sinh mà để tự chúng em cố gắng bởi chúng em cũng biết đâu là điều quan trọng với mình, chúng em sẽ cố gắng làm điều đó".
Tìm hiểu sâu hơn thông qua phỏng vấn sâu một vài khách thể, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng khối 12 có mức độ hạnh phúc thấp hơn là do các em sắp phải bước vào kì thi THPT Quốc gia, các em chia sẻ “áp lực thi cử là rất lớn, nhiều khi em cảm thấy rất mệt mỏi” hay ảnh hưởng của việc phải tập trung ôn thi là “đến lớp mà thấy trong lớp có ít học sinh, các bạn gục mặt xuống bàn hết làm em cảm thấy tinh thần đi xuống” và suy nghĩ tiêu cực “sắp phải xa nhau”.
Mối quan hệ với thầy cô cũng bị ảnh hưởng khi “trước kia, các thầy cô bày nhiều trò cho lớp như cho lớp thuyết trình, bài tập nhóm thi đua vừa học vừa chơi” còn vào thời gian ôn thi thì “thầy cô hầu hết là đưa đề cho lớp làm, giảng lại chỗ khó hiểu, nhắc lại kiến thức cũ”…
"Nhà vệ sinh ở trường học" cũng là khía cạnh học sinh có sự hài lòng ở mức thấp mà học sinh đánh giá là có ảnh hưởng tới việc học tập của các em ở trường. Nhiều học sinh cho rằng: “Phòng vệ sinh ở trường bốc mùi rất khó chịu, nếu không cần thiết lắm thì chúng em sẽ không vào đó. Đó là nơi bọn em ghét nhất ở trường học.”
Khi được hỏi mong muốn đề xuất về cơ sở vật chất như thế nào thì học sinh bày tỏ: “Em muốn nhà vệ sinh được cải thiện thêm, miễn là nhà vệ sinh sạch sẽ là em thấy vui rồi” hoặc “em muốn khu nhà vệ sinh phải được xây lại cho sạch hơn, thoáng hơn”…
Hài lòng với các mối quan hệ trường học
Trong các khía cạnh về cảm nhận hạnh phúc ở trường học, học sinh hài lòng nhất với các mối quan hệ ở trường học.
Nhìn chung học sinh cảm thấy không bị bắt nạt ở trường học; hòa thuận với bạn học; giáo viên quan tâm đến học sinh. Có những ý kiến phỏng vấn sâu đồng tình về điều này như: “Cô dạy Toán nhưng lại dạy lớp em về cách làm người, về chân - thiện - mỹ rất nhiều. Cô quan tâm không chỉ đến việc học trên lớp mà còn cả hoàn cảnh gia đình của chúng em, tôn trọng ý kiến của học sinh và luôn sát bên học sinh. Với lớp em, cô là người mẹ hiền của cả lớp". “Em nghĩ là tình cảm thầy cô dành cho em, em thấy tình cảm ấy rất thật. Điều đó làm chúng em tự tin hơn và cảm thấy mình được yêu thương, luôn có người bên cạnh quan tâm và động viên giúp em vượt qua áp lực thi cử, có tinh thần lạc quan hơn". (học sinh lớp 12).
Trong nhóm cách thức tự hoàn thiện, đáng chú ý nhất là mệnh đề "tìm kiếm sự trợ giúp từ nhà trường khi gặp vấn đề về học tập". Mặc dù học sinh đánh giá trường học tạo điều kiện cho các em phát triển bản thân nhưng các em lại rất hạn chế tìm kiếm sự trợ giúp từ phía nhà trường.
Ảnh minh họa
Nguyên nhân của điều này có thể do tâm lý ngại ngùng của các em như chia sẻ của một học sinh nữ lớp 11: “Em tự giải quyết hoặc tìm đến bạn bè của mình. Vì em thấy rất khó khăn để nói chuyện với cha mẹ hoặc thầy cô".
Về khía cạnh sức khỏe, vấn đề các em thường gặp phải là khó ngủ, đau đầu, căng thẳng, mệt mỏi. Các kết quả phỏng vấn sâu cho thấy mệt mỏi, thiếu ngủ xảy ra ở đa số các bạn học sinh “7h15 phút vào học, có những hôm 7h10 em đến lớp mà thấy trong lớp có ít học sinh, các bạn gục mặt xuống bàn hết làm em cảm thấy tinh thần đi xuống.”
Một học sinh nữ lớp 12 chia sẻ: “Hầu hết mấy môn học không phải thi đại học thì dạy hết chương trình các thầy cô cho lớp tự do hoạt động, yêu cầu không được quá mất trật tự ảnh hưởng đến lớp khác, các bạn luyện đề môn thi, trò chuyện với nhau hay có bạn ngủ trong những tiết đó”.
Theo nhóm nghiên cứu, nhìn chung cảm nhận hạnh phúc ở trường học của nhóm nghiên cứu này ở mức dưới trung bình. Trong các khía cạnh về cảm nhận hạnh phúc ở trường học, học sinh hài lòng nhất với các mối quan hệ ở trường học. Có sự khác biệt giữa nhóm nam và nữ về cảm nhận hạnh phúc ở trường học nói chung và ở khía cạnh "điều kiện ở trường học" và "sức khỏe ở trường học" nhưng không có sự khác biệt ở các khía cạnh: "phát triển bản thân" và "mối quan hệ trong trường học". Cùng với đó, nhóm học sinh khối 10 báo cáo điểm số về cảm nhận hạnh phúc cao hơn so với nhóm học sinh lớp 11, 12.
Box: Trong phạm vi nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng khung lý thuyết về cảm nhận hạnh phúc dựa trên nền tảng mô hình phúc lợi xã hội của Allardt (1989). Allardt lưu ý rằng hạnh phúc bao hàm tất cả các khía cạnh về mức sống và chất lượng cuộc sống. Theo ông thì hạnh phúc có tính lịch sử cụ thể và khi điều kiện sống thay đổi thì phải được xác định lại. Hạnh phúc là trạng thái mà một người có thể đáp ứng các nhu cầu cơ bản của mình, cả các nhu cầu vật chất và tinh thần, Allardt chia các nhu cầu này thành 3 loại: (i), Có (having): các điều kiện vật chất và nhu cầu khách quan; (ii) Yêu thương (loving): các nhu cầu liên quan đến người khác và hình thành bản sắc xã hội; (iii) Trưởng thành (being): biểu thị nhu cầu cho sự phát triển cá nhân, tức là hòa nhập vào xã hội và sống hòa hợp với thiên nhiên, ám chỉ mỗi con người được tôn trọng như một phần có giá trị của xã hội.
Trên cơ sở quan điểm của Allardt, Kuno và Rimpela (2002) đã xây dựng khái niệm “Hạnh phúc ở trường học” phù hợp với điều kiện cụ thể của môi trường học đường. Các tác giả này đã quan niệm hạnh phúc ở trường học được hợp thành 4 khía cạnh gồm: (1) các điều kiện ở trường học; (2) các mối quan hệ xã hội ở trường; (3) cách thức hoàn thiện bản thân ở trường học và (4) tình trạng sức khỏe ở trường học.