|
Họ và tên tác giả: PHAN TIẾN DŨNG
Chức vụ và nơi công tác trước khi nghỉ hưu: Giáo viên Ngữ Văn trường THPT Chu Văn An- Hà Nội
Năm sinh: 02/11/1955 , Năm nhập ngũ hoặc năm đi B: 1973
Đã tham gia chiến trường B, C, K từ năm 1973 đến 1976
|
Chiến dịch tổng tiến công mùa xuân 1975 bắt đầu.
Sau tết Ất Mão 1975, chúng tôi được lệnh hành quên tiếp cận trận địa. Cả núi rừng Tây Nguyên rùng rùng chuyển động. Các quân đoàn từ các cánh rừng hướng về thị xã Buôn Mê Thuật thẳng tiến.
Từ cuối 1974, các đơn vị công binh đã lặng lẽ mở sẵn những con đường hành quân cho xe tăng và đại pháo của ta xung trận. Để đảm bảo bí mật đến phút chót, các chiến sĩ công binh cưa quá 3/2 gốc cây để cây vẫn sống bình thường mà máy bay trinh sát của địch không thể phát hiện được. Xe tăng tham chiến húc đổ cây đã cưa sẵn mà tiến. Xe đi đến đâu cây đổ đến đó tạo thành những con đường vững trãi. Trong đời lính chiến của mình chưa bao giờ tôi thấy đường ra trận đông vui như trẩy hội như chiến dịch này. Trên những lẻo đường đổ về tiền phương, từng đoàn xe kéo pháo, xe vận tải rầm rập hòa cùng với những đoàn binh chân dép lốp khí thế hừng hực quyết chiến quyết thắng. Những người lính bộ binh chúng tôi sau lưng là gùi đạn, sung vác trên vai có lúc bám vào các xe kéo pháo cho đỡ mỏi chân, có lúc mệt quá rúc vào bụi cây mà chợp mắt, tỉnh dậy lại tiếp tục hành quân mà không sợ bị lạc đơn vị. Chiều tối đến nơi tập kết sẽ có người của đơn vị ra đón.
Chiều tối 8/3/1975, chúng tôi được lệnh giao nộp quân tư trang cá nhân ở hậu cứ. Mọi giấy tờ, ảnh, thư từ của cá nhân đều phải nộp lại hết chỉ được phép mang theo cơ số đạn và súng bên mình mà thôi. Đêm đó cán bộ chỉ huy tập hợp đơn vị quán triệt mệnh lệnh hành quân. Tất cả chúng tôi tháo hết dây võng nối lại buộc với những thanh tre cận khoảng 60-70 phân làm thành những thang dây để vượt rào và đánh vào những khu nhà cao tầng. Rồi nối thành những sợi dây dài cứ cách 80 phân lại buộc một mảnh vải trắng để hành quân trong đêm cầm tay vào sợi dây đó mà đi khỏi lạc nhau. Sau áo và mũ của mỗi chiến sĩ đều khâu hoặc dán một miếng vải trắng để người đi sau nhìn thấy điểm trắng của người đi trước mà bám sát. Dọc đường hành quân tiếp cận trận địa tuyết đối không được gây tiếng động nhỏ nào, nếu lạc nhau thì chỉ được phép ra ám hiệu bằng tiếng gió “suỵt.. suỵt….” làm tín hiệu nhận nhau tuyệt nhiên không được phát âm thành tiếng. Mọi công việc được chúng tôi hoàn thành xong trong đêm 8/3 và sáng 9/3.
Sáng 9/3 chúng tôi nhận được mỗi người 2kg lương khô và ba nắm cơm đã được anh nuôi chuẩn bị sẵn và được chỉ huy đơn vị quán triệt trong trận đánh đầu tiên chúng tôi chỉ được phép ăn cơm nắm với ruốc không được đụng vào lương khô vì sợ trận đánh không đứt điểm mà địch bao vây tái chiếm trận địa thì còn có lương khô dự trữ để cầm cự.
15h chiều 9/3, mệnh lệnh hành quân chiến đấu được phát ra. Chúng tôi xuất kích. Khoảng 18h đơn vị chúng tôi đã đến bìa rừng. Thị xã Buôn Mê Thuật đã hiện ra trước mắt chúng tôi. Lúc này có ba chiếc xe reo của địch đang lấy gỗ ở bìa rừng, toàn đơn vị tản ra núp vào các gốc cây để giữ bí mật an toàn cho trận đánh. Trời tối hẳn. Chúng tôi lặng lẽ vượt qua những lương lúa, lương mì (sắn) của đồng bào người dân tộc Ba-na, Ê-đê,… vừa thu hoạch xong. Đêm mùa xuân ở cao nguyên thật vời vợi. Bầu trời thăm thẳm. Màn đêm như một tấm lụa đen mềm mại và dịu mát bao phủ lấy cao nguyên. Bao lâu sống ở trong rừng tầm mắt bị hạn chế lần đầu tiên ra nơi thoáng đãng nhìn về phía thị xã điện sáng trưng với những đèn đỏ tín hiệu nhấp nháy ở những tòa nhà cao tầng hay cột ăng ten, tôi có cảm giác thật khó tả tựa như con bướm từ trong tổ kén vừa nhìn chui ra nhìn thấy thế giới xung quanh vừa lạ lẫm vừa huyền diệu làm tôi quên mất mình đang đi về phía cái chết đang chờ đợi mình.
8h tối, pháo binh của ta bắt đầu nã đạn vào thị xã. Từng làn đạn pháo tầm xa cứ víu víu trên đầu chúng tôi hướng về phía thị xã đang cấp tập rót vào mục tiêu. Tôi có cảm giác an toàn như thể những làn đạn ấy đang che trở chúng tôi. Đoàn quân cứ lặng lẽ tiến sát vào trận địa. Tôi nghe gần lắm tiếng những người dân trong thị xã náo loạn gọi nhau di tản. Tiếng loa phóng thanh của địch trấn an nhân dân bằng những câu như “đồng bào trận tự để chính quyền làm việc. Cộng sản không thể vào thị xã”….. Vừa đi qua một bãi đất trống, hình như là một khu vườn, tôi bước hụt chân vào một cái rãnh và bị ngã. Hộp đạn AK trên đùi của tôi văng ra. Trời tối quá, tôi mò tìm hộp đạn mãi mà không thấy vì thế đoàn quân phía sau tôi khựng lại. Khi tôi tìm được hộp đạn thì toán quân đi trước đã mất hút vào bóng đêm, tôi ra hiệu bằng những tiếng suỵt suỵt… mà không thấy tiếng đằng trước đáp lại. Ngay lúc ấy, đồng chí chính trị viên đại đội của tôi , anh tên là Thú, người Hưng Yên, đi cuối hàng quân chạy lên hỏi tôi sao đứng lại. Tôi trả lời không nhìn thấy đoạn trước nên không dám đi tiếp sợ lạc đường và ngay lúc ấy anh lệnh cho đoàn quân ngồi xuống chờ trinh sát ra dẫn đường. Không ngờ đấy là lần cuối cùng tôi ở cạnh chính trị viên của mình. Anh Thú đã hi sinh ngay từ loạt đạn đầu trận đánh hôm đó. Đang ngồi chờ trinh sát ra dẫn đường bỗng tôi thấy một người cúi sát mặt tôi hỏi: “Đây có phải C2 không đồng chí ?”. Tôi giật mình bởi giọng nói rất quen! Tôi trả lời: “Đùn C2 đây, đang chờ trinh sát ra dẫn đường”. Người đó ôm trầm lấy tôi gieo thì thầm “Dũng phải không? Tao đây. Bửu đây!”.
Bửu là bạn thân của tôi . Chúng tôi cùng xã nhưng khác làng .Tôi, Bửu và Mền(người cùng xóm với tôi)cùng học một lớp ba năm cấp 3 . Chúng tôi rất thân nhau . Vừa thi xong tốt nghiệp cấp 3 cũng là lúc xã có đợt tuyển quân thế là ba chúng tôi đều nhập ngũ và cả ba cùng một đơn vị huấn luyện . Sau bốn tháng huấn luyện,chúng tôi được bổ sung về sư đoàn 316,rất may cả ba thằng cùng ở cùng một tiểu đoàn.Sư đoàn chúng tôi chiến đấu ở mặt trận thượng Lào. 316 là sư đoàn thiện chiến ở vùng rừng núi,nhưng chưa một lần đánh đồng bằng hay thành phố . Cuối năm 1973,đầu năm 1974 sư đoàn chúng tôi được lệnh trở về chiến trường Việt Nam . Toàn bộ sư đoàn đóng quân ở vùng rừng núi Nghệ An .
Chúng tôi mở con đường chiến lược 15 tức là đoạn bắt đầu của đường mòn Hồ Chí Minh ở miền Bắc . Vừa làm đường vừa huấn luyện . Tôi và Bửu cùng ở một đại đội . Giữa tháng 9/1974,Bửu được trung đoàn gọi lên nhận nhiệm vụ mới . Trung đoàn thành lập một đại đội trinh sát . Đầu tháng 10/1974,đại đội trinh sát của Bửu bí mật lên đường vào Mặt trận Tây Nguyên để chuẩn bị chiến trường . Cuối tháng 11/1974 toàn sư đoàn nhận lệnh vào chiến trường B . Những đoàn xe zin 130 chở chúng tôi lặng lẽ đi trong đêm . Chúng tôi không kịp báo tin cho gia đình . Ngồi trên xe xé giấy ở quyển sổ lưu niệm,chúng tôi biên thư gửi về gia đình . Thư không tem . Chúng tôi ghi đằng sau phong bì dòng chữ "Vì vội ra chiến trường không kịp mua tem . Ai nhặt được thư này làm ơn mua tem dán gửi gúp chúng tôi"rồi chúng tôi vứt thư xuống đường để nhân dân nhặt rồi gửi giúp .
Tôi kể như trên để bạn đọc hình dung vì sao đêm ấy,tôi và Bửu lại gặp nhau trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy .
Bửu dẫn chúng tôi đi qua một cái nương trồng toàn chuối rồi ra một con đường nhỏ có một cái máng nước . Chúng tôi được lệnh dừng lại lấy nước đầy bi đông . Vượt qua một cái vườn,chúng tôi gặp ngay một cái đường lớn . Đèn pha từ trong đồn địch chiếu thẳng con đường sáng như ban ngày . Mệnh lệnh ban ra "Toàn bộ đơn vị ôm súng lăn qua đường"để tránh sự phát hiện của địch . Qua con đường ấy đơn vị chúng tôi lọt vào một khu trang trại của người dân . Chúng tôi lặng lẽ ém quân và cử một bộ phận vào mấy ngôi nhà ở trang trại giữ chân họ lại không cho họ di chuyển vào trong thành báo tin cho địch . Đúng 2 giờ sáng ngày 10/3/1975,chúng tôi chiếm lĩnh trận địa . Theo hợp đồng tác chiến thì đúng 2 giờ sáng,xe tăng của ta vào phá cửa mở để bộ binh chúng tôi đánh thọc sâu . Nhưng đơn vị xe tăng lạc đường mãi đến 1 giờ 30 phút chiều tăng mới vào được đến trận địa .
Mục tiêu của chúng tôi là đánh vào khu tăng thiết giáp của sư đoàn 23 Ngụy ở thị xã Buôn Mê Thuột . Khu tăng thiết giáp ấy nằm cạnh nghĩa trang nhân dân thị xã Buôn Mê Thuột nên trận địa chúng tôi bố trí ngay trong nghĩa trang . Chúng tôi không thể đào hầm cá nhân được vì đất quá rắn và xẻng bằng sắt tây chạm vào đất đã quằn . Chúng tôi đành lợi dụng những ngôi mộ xây cao để làm công sự .
Trời tờ mờ sáng ,tôi thấy đói bụng,vì chúng tôi hành quân từ trưa mồng 9/3 chẳng kịp nghỉ ăn . Tôi và đồng chí Việt.tiểu đội trưởng,người Xuân Thủy Nam Hà nằm cạnh một ngôi mộ của một cô gái (trên mộ có gắn ảnh) bóc một phong lương khô đặt lên thành ngôi mộ để ăn thì một loạt đạn AR15 kêu như trống đánh ngũ liên roẹt roẹt,chíu chíu bên tai chúng tôi và gói lương khô bị loạt đạn ấy bắn bay mất . Ngước nhìn từ nơi tiếng súng phát ra , tôi nhận ra đó là một cái chòi gác của địch có hai ba cái bóng lính ngụy lố nhố từ trên cao chĩa súng về phía chúng tôi . Hóa ra từ nãy giờ chúng tôi ngồi dưới chân chòi gác của địch mà không biết vì trời tối ! Việt nhảy lùi lại phía sau một ngôi mộ khác nằm chéo góc kê khẩu B41 xiết cò chỉ nghe tiếng thét thất thanh của địch rồi cái chòi gác ấy biến mất . Địch phát hiện ra bộ đội ta,chúng nã cối và đại liên xối xả về phía quân ta .
Khu tăng thiết giáp này có 5 hàng rào dây thép gai . Hai hàng rào kép ở ngoài . Hàng rào thứ ba là hàng rào bùng nhùng . Hai hàng rào trong cùng là hàng rào đơn . Đã được phân công từ trước,đồng chí Cách,người Nam định ôm bộc phá lên đánh hàng rào thứ nhất,Tiếp đó là đồng chí Chắt người Vinh đánh hàng rào thứ hai . Đến lượt tôi ôm bộc phá đánh hàng rào thứ ba,địch tập trung hỏa lực băn xối xả ra phía cửa mở làm tôi không tài nào lên được . Lợi dụng phút ngừng nghỉ giữa hai loạt đạn,tôi trườn lên gài bộc phá vào hàng rào giật nụ xòe rồi nhanh chóng trườn xuống phía sau những ngôi mộ để tránh đạn.Tôi vô tình lọt giữa bốn ngôi mộ vây xung quanh,quan sát thấy đây là một cái công sự khá chắc chắn.Bỗng từ đâu đồng chí y tá đại đội trườn đến nằm cạnh tôi . Tôi bảo với đồng chí ấy trườn ra chỗ khác hai thằng một chỗ mà dính cối thì chết cả hai nhưng hắn sợ dính đạn cứ nằm yên tại chỗ . Thấy vậy,tôi bèn trườn chếch về phía tay trái cách đó hai ba ngôi mộ phía sau đó. Một ánh chớp lóe lên kèm theo một tiếng nổ đinh tai nhức óc rồi đất đá rào rào đổ xuống người tôi . Có hai vật rơi bụp bụp lên đầu lên lưng tôi . Tưởng là địch ném lựu đạn trúng mình,tôi chộp lấy ném đi nhưng tay tôi chạm phải túi vải mềm và dính hóa ra đó là hai nắm cơm của đồng đội nào bay đến .Tôi nhìn sang bên phải chỗ bốn ngôi mộ lúc nãy,nơi đồng chí y tá nằm thì thấy một cái hố toang hoác cả bốn ngôi mộ bị cày xới lên và cánh tay cẳng chân của đồng đội tôi văng lên ngôi mộ bên cạnh.Tôi nhìn xung quanh thấy nhiều đồng đội bị thương và hy sinh . Thấy âm ấm , buôn buốt ở bên hông mình,tôi lấy tay sờ thì chạm phải một đống bầy nhầy vạt áo bên hông phải bị rách máu chảy thấm cả hết cả áo . Đống bầy nhầy đó là ruột tôi đang đùn ra . Tôi liền gọi anh Việt bảo hình như tôi dính đạn. Việt trườn đến lấy ngón tay nhét ruột tôi vào bụng nhưng càng nhét thì ruột càng đùn ra cuối cùng Việt lấy bát sắt B52 úp vào rồi lấy băng quấn lại bảo tôi nằm yên.Rồi tôi lịm đi .Tôi mơ hồ nghe tiếng ầm ầm , tôi mở mắt ra thấy xe tăng cắm cờ quân giải phóng đang nghiền nát hàng rào dây thép gai . Tôi nhìn lên thấy pháo hiệu xung phong của quân ta vun vút đỏ bầu trời .Rồi tôi thấy năm chiến sĩ cùng khiêng một khẩu 12ly7 đạp lên rào dây thép gai xông vào đồn giặc . Tôi cũng đứng dậy xách súng xông lên nhưng vừa đứng dậy mặt mày xây xẩm rồi ngả lăn ra bất tỉnh . Khi mở mắt ra tôi thấy Bửu mặt đen xì khói súng,chắc cậu ấy bắn nhiều quá chỉ có hai hàm răng là trắng đang đỡ lấy đầu tôi nước mắt lăn dài trên gò má...!